🐨 Làng Gốm Bát Tràng Tiếng Anh Là Gì
GIÁO ÁN KHÁM PHÁ XÃ HỘI Đề tài : Nghề truyền thống: Gốm Bát Tràng Lứa tuổi : Trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi Số lượng : 30- 35 trẻ Thời gian : 30- 35 phút Ngày dạy: 30/10/2017 Người dạy : Lê Thị Huệ I/ MỤC ĐÍCH- YÊU CẦU: 1/ Kiến thức: - Trẻ biết tên và một số đặc điểm
Xã có 2 làng nghề truyền thống gốm sứ nổi tiếng là Bát Tràng và Giang Cao với khoảng 1.000 hộ sản xuất, kinh doanh gốm sứ. Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng đã được xuất khẩu tới các thị trường lớn trên thế giới như: Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Italy… Bát Tràng có
Giới thiệu về Làng gốm Bát Tràng Làng gốm Bát Tràng nằm ở ven sông Hồng, thuộc huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội. Cái tên Bát Tràng có nghĩa là "cái sân lớn", và làng có lịch sử hình thành từ thời Lê. Đây là làng gốm lâu đời nổi tiếng nhất ở Việt Nam, cũng như là địa điểm mà du khách trong và ngoài nước không thể không một lần ghé thăm.
Du lịch làng Gốm Bát Tràng. Bát Tràng là một làng nghề lâu đời ở kinh thành Thăng Long xưa. Theo wikipedia : Làng có tên gọi là Làng Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội từ trước năm 1945. Cách đây hơn 700 năm, người dân thôn Bát Tràng di cư từ làng Bồ Bát (xã Bồ Xuyên và
Bạn có thể chuyển font chữ từ Unicode sang TCVN3 hoặc ngược lại bằng cách copy toàn bộ nội dung trong file Làng gốm Bát Tràng vào bộ nhớ đệm và sử dụng chức năng chuyển mã của phần mềm gõ tiếng việt Unikey.
Làng Gốm Chu Đậu - Hải Dương Nếu Bát Tràng là làng gốm nức tiếng đất Hà Thành thì Chu Đậu là làng gốm lâu đời của tỉnh Hải Dương. Ngôi làng này là một vùng quê yên bình nằm bên tả ngạn sông Thái Bình. Làng gốm này được xem là một trong sống những làng gốm nổi tiếng ở Việt Nam, phát triển từ nhiều thế kỷ trước.
Gốm hoa lam là loại sản phẩm gốm có trang trí bằng màu xanh lam. Chất liệu tạo màu chủ yếu là ôxit côban màu xanh lam (màu chàm). Phần lớn các loại gốm hoa lam được làm từ loại đất sét trắng, được tinh luyện khá kỹ, nung ở nhiệt độ 1300 độ C. Trang trí hoa lam trên
Hai là, trong thời gian chờ đợi các cấp có thẩm quyền lập, phê duyệt quy hoạch Dự án Bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống kết hợp du lịch tại Bát Tràng, đề nghị các cấp, các ngành của thành phố Hà Nội có giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, tạo điều
Sản phẩm gốm Bát Tràng là mặt hàng được nhiều nước ưa chuộng vì vẻ đẹp hài hoà, độc đáo của hình dáng, mầu men và nét vẽ. Chính nhờ những bàn tay tài hoa của người thợ gốm Bát Tràng mà biết bao sản phẩm gốm đã trở thành món lợi lớn của các thương nhân
qWgzsfG. Du lịch cùng Vietnamtravelinsider bạn sẽ co cơ hội được tận mắt thưởng ngoạm Bát Tràng một làng quê làm gốm bên bờ Sông Hồng . Gốm Bát Tràng là tên gọi chung cho các loại đồ gốm được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát 鉢 là bát ăn của nhà sư tiếng Phạn là Patra, chữ Tràng 場, còn đọc là Trường nghĩa là “cái sân lớn”, là mảnh đất dành riêng cho chuyên môn. Theo các cụ già trong làng kể lại, chữ Bát bên trái là bộ “Kim-金” ví với sự giàu có, “本-bản” có nghĩa là cội nguồn, nguồn gốc. Dùng chữ Bát như vậy để khuyên răn con cháu “có nghề có nghiệp thì cũng không được quên gốc”. Hiện nay, tại các đình, đền và chùa ở Bát Tràng đều vẫn còn các chữ Bát Tràng được viết bằng chữ Hán là 鉢場. Xã Bát Tràng 社鉢場 là tên gọi cũ của làng Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội từ trước năm 1945. Trước đây hơn 700 năm, người dân thôn Bát Tràng di cư từ làng Bồ Bát xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa ngoại, nay là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình[1], theo vua Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, đến vùng đất bồi trên bờ sông Hồng, lập phường làm nghề gốm gạch xây dựng; lúc đầu thôn Bát Tràng được gọi là Bạch Thổ Phường, Xã Bát Tràng tức làng Bát Tràng ngày nay thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh sinh sống chủ yếu bằng nghề làm gốm sứ và buôn bán và làm quan. Thời nhà Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh, lúc này xã Bát Tràng thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An. Đến năm 1862 chia về phủ Thuận Thành và năm 1912 chia về phủ Từ Sơn. Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên. Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao và xã Kim Lan lập thành xã Quang Minh. Từ năm 1964, xã Bát Tràng được thành lập gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang Cao như hiện 1958, nhà nước thực hiện đào sông Bắc Hưng Hải – Đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải làm thuỷ lợi tưới tiêu cho một vùng đồng ruộng rộng lớn của 3 tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, tạo ra thêm một con đường mới đi vào xã Bát Tràng, vì vậy từ Hà Nội, có thể theo đường thuỷ từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi sông Hồng đến bến Bát Tràng, cũng có thể theo đường bộ qua cầu Chương Dương hay cầu Long Biên rồi theo đê sông Hồng đến dốc Giang Cao rẽ xuống Bát Tràng khoảng 15 km hoặc theo quốc lộ số 5 đến Trâu Quỳ rẽ về phía tay phải theo đường liên huyện qua xã Đa Tốn đến Bát Tràng khoảng hơn 20 km. Hoặc từ trung tâm thành phố Hà Nội, nếu theo đường thủy có thể xuất phát từ bến Chương Dương dọc theo sông Hồng đến bến Đình Bát Tràng cảng du lịch Bát Tràng hoặc theo đường bộ, qua cầu Chương Dương hoặc cầu Long Biên dọc theo tuyến đê Long Biên-Xuân Quan đê Tả Hồng tới Cống Xuân Quan công trình Đại thủy nông Bắc Hưng Hải rồi rẽ tay phải đi khoảng 1 km sẽ tới Trung tâm làng cổ Bát Tràng. Hoặc từ quốc lộ 5 rẽ vào Trâu Quỳ qua xã Đa Tốn lên đê rẽ tay trái tới 1 km tới cống Xuân Quan rồi rẽ tay phải cách trường Đại học Nông nghiệp I – Trâu Quỳ chỉ khoảng 7 km.Ngày nay việc đến Bát Tràng rất thuận lợi vì từ năm 2006, công ty vận tải Hà Nội đã mở tuyến xe buýt 47 về đến Chợ Gốm Làng cổ Bát Tràng là điểm cuối huyện An Lão, thành phố Hải Phòng có một xã tên gọi Bát Trang gần giống với Bát Tràng. Theo sử biên niên có thể xem thế kỷ 14-15 là thời gian hình thành làng gốm Bát Việt sử ký toàn thư chép “Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thú 12 1352… mùa thu, tháng 7, nước lớn tràn ngập, vỡ đê xã Bát, Khối, lúa má chìm ngập. Khoái Châu, Hồng Châu và Thuận An bị hại nhất”. Xã Bát là xã Bát Tràng, xã Khối là xã Thổ Khối, hai xã ven đê bên tả ngạn sông Nhị, tức sông Hồng ngày nay.[2]Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì năm 1376, trong một cuộc Nam chinh, đoàn chiến thuyền của vua Trần Duệ Tông xuất phát từ Thăng Long xuôi theo sông Nhị sông Hồng đi qua “bến sông xã Bát” tức bến sông Hồng thuộc xã Bát địa chí của Nguyễn Trãi chép “Làng Bát Tràng làm đồ bát chén” và còn có đoạn “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Câu thuộc huyện Văn Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát đĩa, 200 tấm vải thâm”…Nhưng theo những câu chuyện thu thập được ở Bát Tràng thì làng gốm này có thể ra đời sớm hơn. Tại Bát Tràng đến nay vẫn lưu truyền những huyền thoại về nguồn gốc của nghề gốm như sauVào thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều hay Cảo, Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú hay Lưu Vĩnh Phong được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu Quảng Đông hiện nay tại Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh nước men màu đỏ màu vàng thẫm. Câu chuyện trên cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang với thời Bắc Tống nghĩa là trước năm ký ức và tục lệ dân gian thì trong số các dòng họ ở Bát Tràng, có dòng họ Nguyễn Ninh Tràng. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh, một lò gốm ở Thanh Hoá, nhưng chưa có tư liệu xác nhận. Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Lê, Vương, Phạm, Nguyễn… ghi nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát. Vào thời Hậu Lê khoảng cuối thế kỉ thứ 14 – đầu thế kỉ 15 và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hoá Ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm. Theo truyền thuyết và gia phả một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi ở vùng 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Do nhu cầu phát triển của kinh thành, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long hành nghề và lập nghiệp. Sự ra đời và phát triển của Thăng Long đã tác động mạnh đến hoạt động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có làng Bát Tràng. Đặc biệt vùng này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường phường Đất Trắng. Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ một làng gốm bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử của ba nhân vật trên cũng như khẳng định sự hình thành của làng. Những công trình khai quật khảo cổ học trong tương lai có thể cho thấy rõ hơn bề dày lịch sử và những di tích của làng gốm Bát Tràng. Chỉ có điều chắc chắn là gốm Bát Tràng xuất hiện từ rất sớm, vào giai đoạn cuối của Văn hoá Hoà Bình đầu Văn hoá Bắc Sơn. Trong quá trình phát triển nghề gốm, đương nhiện có nhiều quan hệ giao lưu với gốm sứ Trung Quốc và có tiếp nhận một số ảnh hưởng của gốm sứ Trung Quốc. Chính sách của nhà Mạc đối với công thương nghiệp trong thời gian này là cởi mở, không chủ trương “ức thương” như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn, Mĩ quốc công phu nhân… Người đặt hàng trải ra trên một không gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.[sửa]Thế kỉ 16-17Sau những phát kiến địa lí cuối thế kỉ 15, nhiều nước phát triển của Tây Âu tràn sang phương Đông. Các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… thành lập công ty, xây dựng căn cứ ở phương Đông để buôn bán. Hoạt động mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn có lịch sử lâu đời càng trở nên sôi động, lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán châu Á và với thị trường thế giới đang hình khi thành lập, nhà Minh Trung Quốc chủ trương cấm tư nhân buôn bán với nước ngoài làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc bị hạn chế đã tạo điều kiện cho đồ gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở vùng Đông Nam Á. Khi nhà Minh Trung Quốc bãi bỏ chính sách bế quan toả cảng 1567 nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu và mặt hàng quan trọng sang Nhật Bản, đã tạo cho quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản đặc biệt phát triển, qua đó nhiều đồ gốm Bát Tràng được nhập cảng vào Nhật 1644 nhà Thanh Trung Quốc tái lập lại chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài, cho đến năm 1684 sau khi giải phóng Đài Loan. Trong thời gian đó, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có đồ gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh nên lại có điều kiện phát triển kỉ 15-17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất khẩu Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá các xã Minh Tân, Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Lúc bấy giờ, Thăng Long Hà Nội và Phố Hiến nay thuộc tỉnh Hưng Yên là hai đô thị lớn nhất và cũng là hại trung tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng có may mắn và thuận lợi lớn là nằm bên bờ sông Nhị sông Hồng ở khoảng giữa Thăng Long và Phố Hiến, trên đường thuỷ nối liền hai đô thị này và là cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây, đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á, Nam Á. Các công ty phương Tây, nhất là Công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong phương thức buôn bán “từ Ấn Độ phương Đông sang Ấn Độ”, đã mua nhiều đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản.[sửa]Cuối thế kỉ 17& đầu thế kỉ 18Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng 1684 và triều Thanh bãi bỏ chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó, gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á và đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau một thời gian đóng cửa để bảo vệ các nguyên liệu quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh được sự phát triển các ngành kinh tế trong nước như tơ lụa, đường, gốm sứ… mà trước đây phải mua sản phẩm của nước ngoài. Thế kỉ 18-19 Tượng nghê bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh số nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng công nghiệp với những hàng hoá mới cần thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tình hình kinh tế đó cùng với chính sách hạn chế ngoại thương của các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế kỉ 18 và của nhà Nguyễn trong thế kỉ 19 đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sa sút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đó là lí do khiến một số làng nghề gốm bị gián đoạn sản xuất như làng gốm Chu Đậu-Mỹ Xá. Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý tộc đến dân thường. Trong giai đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm sút, nhưng làng gốm Bát Tràng vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền thống có tiếng trong nước. Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình Chiến tranh Đông Dương 1945-1954, năm 1957, 10 cá nhân là địa chủ, con địa chủ của thôn Giang Caosau cải cách ruộng đất năm 1955 góp vốn thành lập công ty gốm Trường Thịnh, để sản xuất gốm sứ dân dụng phục vụ xã hội, đây là nền tảng khởi đầu cho Xí nghiệp sứ Bát Tràng. Năm 1958 nhà nước làm công tư hợp doanh, chuyển đổi công ty gốm Trường Thịnh thành Xí nghiệp sứ Bát Tràng, thuê công nhân thôn Bát Tràng vào làm việc. Với cơ sở vật chất đầy đủ, nhân công Bát Tràng được thử nghiệm, thực hành, sáng tạo trên cơ sở sự chịu khó, cần cù đã tạo nên được một thế hệ có tay nghề gốm vững chãi. Cùng lúc đó một số hợp tác xã như Hợp Thành 1962, đóng ở phần đất gần với xã Đa Tốn, Hưng Hà 1977, Hợp Lực 1978, Thống Nhất 1982, Ánh Hồng 1984 và Liên hiệp ngành gốm sứ 1984Xí nghiệp X51, X54 1988… Các cơ sở sản xuất trên cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mĩ nghệ và một số hàng xuất khẩu. Những nghệ nhân nổi tiếng như của Bát Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Lê Văn Cam… đào tạo được nhiều thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở ở các năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần, những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình. Xã Bát Tràng nay đã trở thành một trung tâm gốm nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng. Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm chén, bát đĩa, lọ hoa… kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện… và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài. Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc…
Làng gốm Bát Tràng là một địa điểm du lịch làng nghề không thể bỏ qua. Bài viết dưới đây sẽ đưa đến cho bạn đọc một “góc nhìn du lịch” chi tiết về làng nghề, chợ gốm, bảo tàng gốm và các trải nghiệm nên thử khi tham quan Bát Tràng. Tham quan làng nghề truyền thống đang dần trở thành xu hướng với những tín đồ đam mê du lịch. Nếu bạn chưa có kế hoạch gì vào cuối tuần này, hãy cùng Du lịch 3 miền tới Bát Tràng và trải nghiệm giá trị văn hóa phi vật thể thông qua cuộc sống lao động của những nghệ nhân nổi tiếng đang hết lòng gìn giữ văn hóa dân tộc. Giới thiệu về làng gốm Bát Tràng Làng Bát Tràng ở ngoại thành Hà Nội vang danh là một làng nghề làm gốm lâu đời với trên 700 năm tuổi. Các sản phẩm gốm và sứ tinh xảo được đúc nặn từ chất đất sét trắng đặc biệt bởi bàn tay những nghệ nhân tài hoa sẽ khơi nguồn cảm hứng cho bất kỳ ai muốn tìm hiểu về món nghề truyền thống công phu này. Làng gốm Bát Tràng ở đâu? Địa chỉ Nằm ở 204 Giang Cao, Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội – cách trung tâm nội thành khoảng 15km. Du khách có thể lựa chọn phương tiện cá nhân hoặc xe bus để đi tới đây. Ô tô, xe máy Thời gian di chuyển 30 phút từ trung tâm Đường đi Bát Tràng bằng xe máy đi qua đường Hoàng Diệu, Long Biên – Xuân Quang. Lộ trình di chuyển cụ thể sẽ được cập nhật đầy đủ trên Google Maps. Phí gửi xe từ 10,000đ/phương tiện. Bạn có thể gửi xe ở sân đình làng. Xe bus đi Bát Tràng Du khách có thể lên xe số 47A và xuống xe ở điểm dừng xe Bát Tràng rồi đi bộ khoảng 1km nữa là tới nơi. Lộ trình chi tiết có thể tham khảo tại Nguồn tahoturtle Giá vé và giờ mở cửa Giá vé vào làng gốm Bát Tràng Miễn phí. Giờ mở cửa Làng gốm mở cửa cả ngày. Tuy nhiên, một số địa điểm tham quan ở đây sẽ có khung giờ hoạt động nhất định nên du khách cần phải lưu ý như Nhà cổ Vạn Vân 8h00 – 17h30; Lò bầu cổ 8h00 – 17h30; Chợ gốm sứ Bát Tràng 8h00 – 19h00. Lịch sử làng gốm Bát Tràng Gia Lâm Hà Nội “Bát Tràng” có ý nghĩa là “cái sân lớn” dành riêng để phát triển vật dụng sinh hoạt. Không chỉ thế, cái tên này khi dịch ra tiếng Hán có ý nghĩa là sự giàu có gắn liền với cội nguồn, là một lời nhắn nhủ cho con cháu tiếp tục duy trì những giá trị cốt lõi mà cha ông để lại. Thật vậy, làng gốm đã tồn tại được hàng trăm năm với nhiều ý nghĩa văn hóa to lớn, góp phần tạo nên bản sắc nước Việt. Làng gốm Bát Tràng có từ bao giờ? Theo truyền thuyết, làng gốm bắt đầu hình thành từ thế kỉ 11, khi vua Lý dời đô đến Thăng Long, các nghệ nhân di cư từ làng Bồ Bát Ninh Bình tới đây lập nghiệp. Nơi đây có nguồn nguyên liệu là đất sét trắng, đạt chất lượng để tạo ra những sản phẩm tuyệt vời. Tuy nhiên, sử sách bắt đầu ghi lại được sự xuất hiện của làng vào thế kỉ 15, khi các sản phẩm gốm Bát Tràng được sử dụng rộng rãi cả trong nước và Quốc tế, vinh dự được triều đình lựa chọn làm vật cống cho nhà Minh. Nguồnchilan_hiroshima Sự phát triển của làng gốm Bát Tràng vẫn tiếp tục rực rỡ trong thế kỷ 16. Khi bước sang giai đoạn từ cuối thế kỷ 17 đến nửa đầu thế kỷ 19, các sản phẩm gốm của Bát Tràng có sụt giảm trong xuất khẩu nhưng vẫn là sự lựa chọn hàng đầu trong nước. Vào thời kỳ Pháp thuộc, gốm Bát Tràng phải cạnh tranh với rất nhiều sản phẩm ngoại nhập nhưng không hề thua kém, giữ được ưu thế nhất định. Cho đến hiện tại, làng nghề gốm sứ Bát Tràng vẫn duy trì sự phát triển vững bền và vẫn đang tiếp tục đào tạo nhiều nghệ nhân trẻ để tiếp tục giữ gìn truyền thống từ thời ông cha. Dần dần, nơi đây ngày càng phát triển, mở rộng chủng loại sản xuất, cải tiến công nghệ sản xuất và mang lại những sản phẩm chất lượng hơn. Bên cạnh đó, dân làng cũng giữ được giá trị cốt lõi của mình và đang nỗ lực phục chế các dòng men từ thời trước. Top trải nghiệm tại làng gốm Bát Tràng Hà Nội Bát Tràng chắc chắn sẽ là một địa điểm du lịch gần Hà Nội lý tưởng để tham quan và khám phá trong một ngày. Là một làng nghề truyền thống nổi tiếng và lâu đời, đến đây du khách có thể tìm cho mình rất nhiều sản phẩm gốm và sứ độc đáo, tinh xảo; đồng thời những hoạt động nặn gốm, tô màu, tham quan bảo tàng gốm, xem các nghệ nhân lành nghề làm gốm,… hẳn sẽ là những trải nghiệm thích thú cho một ngày dạo chơi ở Bát Tràng. Làng gốm Bát Tràng có gì đẹp? Chợ gốm làng cổ Bát Tràng 950m từ cổng làng Nguồn lasvegas1988 Chợ có diện tích khoảng 6000m2 với hàng trăm cửa hàng khác nhau, đưa du khách vào chốn mê cung đầy màu sắc. Chợ gây ấn tượng với du khách bởi những loại sản phẩm đồ gốm Bát Tràng đa dạng đồ gia dụng, đồ trang trí, đồ thờ cúng,… Bên cạnh đó, giá cả ở đây cực kì phải chăng, rẻ hơn rất nhiều so với việc mua sắm ở những điểm phân phối khác. Có lẽ đây chính là lý do khiến chợ Bát Tràng luôn luôn là một địa điểm thu hút đông đảo khách du lịch. Nhà bàn xoay Bát Tràng 1,9 km từ cổng làng Nhà bàn xoay là một trong những địa điểm không nên bỏ qua khi tham quan làng gốm Bát Tràng, Nhà bàn xoay hay bảo tàng gốm Bát Tràng được khởi công xây dựng từ năm 2018 với thiết kế vô cùng độc đáo, thể hiện tinh thần sáng tạo vô bờ của những người nghệ nhân. Nhà bàn xoay Bát Tràng Nguồn trang29092001 Công trình kiến trúc này được chia làm ba phần. Tầng một là khu trưng bày những sản phẩm gốm đẹp mắt từ những nghệ nhân nổi tiếng và không gian tổ chức các sự kiện nghệ thuật. Tầng hai được thiết kế mới lạ với hình dạng 7 bàn xoay tạo thành đường uốn lượn mềm mại, bao quanh bảo tàng. Trong đó trưng bày các sản phẩm làng gốm Bát Tràng theo từng thời kì, giúp du khách tìm hiểu về quãng đường lịch sử Bát Tràng đã trải qua. Khu vực sân thượng trên cùng vô cùng thoáng mát, là địa điểm các đoàn khách có thể lựa chọn để tổ chức các sự kiện giải trí. Nhà bàn xoay đang ngày càng trở thành một địa điểm siêu “hot” thu hút rất nhiều khách tham quan tới thăm. Lò bầu cổ Bát Tràng 700m từ cổng làng Lò sông Hồng B là lò bầu duy nhất còn tồn tại ở làng gốm Bát Tràng, có diện tích hơn 1000m2, dài 15m, phục vụ được nhu cầu nung nóng lượng sản phẩm rất lớn. Trong lò có năm vòm cuốn liên tiếp hình vỏ sò úp nối vào nhau. Bên ngoài lò nung là phòng trưng bày và khu trải nghiệm làm gốm được rất nhiều du khách ưa thích. Lò bầu cổ bát tràng Nguồn hyuko_hanoi Nhân viên hướng dẫn ở lò bầu cổ đều rất lịch sự, nhiệt tình, sẵn sàng giải đáp những thắc mắc của khách hàng. Bên cạnh địa điểm này là một quán cafe mang phong cách hoài cổ, tao nhã với hương vị đồ uống thơm ngon để du khách dừng chân. Đình làng 1,2km từ cổng làng gốm Bát Tràng Đình được xây dựng để thờ sáu vị thần có công đánh giặc, giành lại cuộc sống yên bình cho người dân. Để bày tỏ lòng tôn kính, mọi chi tiết của đình đều được làm bằng những vật liệu tốt nhất. Cột, xà làm bằng gỗ lim chắc chắn; thềm đình, móng đình,… được xây bằng các loại gạch do dân làng sản xuất. Đình làng bát tràng Nguồn Đình được xây theo cấu trúc hình chữ Nhị gồm hai gian song song với nhau là đại đình và cung đình. Nơi này đã được nhà nước công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật xếp hạng vào năm 2002. Khi tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng, du khách nên tới đây để có thể vừa tham quan mái đình lịch sử, vừa có thể hóng gió và tận hưởng không khí yên bình bên bờ sông Hồng. Nhà cổ Vạn Vân Nhà cổ Vạn Vân nằm ở cuối làng Bát Tràng, đã tồn tại hơn 200 năm và là nơi lưu lại những dấu tích phát triển qua từng thời kỳ của sản phẩm gốm. Du khách tới đây có thể tận hưởng không gian xanh với cây cối bao trùm, nhâm nhi một tách trà và thưởng thức các giá trị nghệ thuật kiến trúc, mỹ thuật. Khám phá làng cổ Đường Lâm với những ngôi nhà cổ có lịch sử 500 tuổi Làng gốm Bát Tràng có gì chơi? Chụp ảnh, check-in Toàn bộ khung cảnh của khu vui chơi ở Hà Nội này đều mang một vẻ đẹp truyền thống, cổ xưa với “tone” màu đỏ gạch. Do đó, du khách có thể có những tấm hình ưng ý ở mọi góc của làng gốm. Nguồn Một số địa điểm mà du lịch 3 miền gợi ý cho bạn để check-in cổng làng, chợ gốm, nhà bàn xoay,… Những bức ảnh mang lại từ làng gốm chắc chắn không làm bạn thất vọng vì chất “vintage” và thanh tao. Khám phá những giá trị văn hóa truyền thống làng nghề qua các sản phẩm từ gốm Du khách đến làng gốm Bát Tràng sẽ được nghe những câu chuyện lịch sử lâu đời của làng gốm, tới thăm những địa điểm có ý nghĩa lớn đối với người dân nơi đây như đình Bát Tràng, nhà cổ Vạn Vân, lò bầu cổ,… Không chỉ thế, niềm yêu thích của du khách đến tham quan cũng chính là một động lực để các nghệ nhân tiếp tục yêu nghề và duy trì những nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Trải nghiệm tham quan, tìm hiểu làng lụa Vạn Phúc, làng hoa Tây Tựu, làng nón Chuông – Những làng nghề truyền thống còn được lưu giữ đến ngày nay. Đến một số xưởng trong làng và quan sát quy trình làm gốm Bát Tràng Du khách có thể đi vào sâu trong làng và hỏi đường tới thăm một số xưởng làm gốm như Gốm sứ Minh Quang, Gốm sứ Hưng Hòa,… Người dân làng gốm Bát Tràng đều vô cùng hiếu khách, họ sẵn sàng giải đáp tất cả thắc mắc cho du khách muốn tìm hiểu về loại hình nghệ thuật truyền thống này. Nguồn kittenvirgo Khi tới những nhà xưởng này, bạn sẽ có cơ hội được quan sát quy trình làm gốm từ việc tạo cốt đến trang trí, phủ men và mang đi nung. Trực tiếp trải nghiệm nặn gốm Bát Tràng Một trong những trải nghiệm thú vị và đáng nhớ nhất của du khách khi đến làng gốm Bát Tràng là được bắt tay tự làm một sản phẩm bằng gốm ở khu vực sân tại lò bầu cổ. Du khách sẽ được cung cấp bàn xoay và các nguyên liệu cần thiết để tự sáng tạo tác phẩm của riêng mình. Nguồn expatvietnam Các nhân viên hướng dẫn vô cùng tận tình, mang đến cho khách hàng cảm giác thoải mái. Đặc biệt, họ còn nói tiếng Anh rất trôi chảy nên khu vực nặn gốm này cũng thu hút cả người nước ngoài. Du khách sẽ được trải nghiệm làm gốm, nhào nặn khuôn và tự tay trang trí sản phẩm trước khi nhờ nhân viên nung hộ. Bạn sẽ chỉ cần phải trả khoảng – cho trải nghiệm thú vị này và thành quả mang về, rất “vừa túi tiền” đúng không nào? Tô tượng, vẽ tranh cho trẻ em Những gia đình có trẻ nhỏ rất ưa chuộng tới thăm làng gốm Bát Tràng bởi khu vực tô tượng, vẽ tranh. Chỉ với – các bé sẽ có trải nghiệm tuyệt vời cùng anh chị em và bạn bè. Vào mùa hè và các ngày cuối tuần, nơi đây thu hút rất đông khách hàng nhí, tạo nên một không khí nhộn nhịp, nô nức tiếng cười trẻ thơ. Mua sắm Đến với làng gốm, du khách chắc chắn sẽ phải “rút ví” khi đi tham quan khu chợ. Bên cạnh việc được sở hữu những sản phẩm đẹp mắt, mua các sản phẩm ở đây cũng là một cách thức thể hiện sự tôn trọng công sức, chất xám của những người nghệ nhân hết lòng vì công việc của mình. Vào dịp Tết, khu chợ đông đúc hơn bao giờ hết khi các gia đình bắt đầu sắm lễ đầu năm. Lễ hội làng gốm Bát Tràng Khi tới tham quan vào đúng dịp ngày Rằm tháng hai âm lịch, du khách sẽ có cơ hội trải nghiệm không khí lễ hội làng gốm được diễn ra tại đình Bát Tràng với nhiều hoạt động vô cùng thú vị như lễ rước nước, lễ tắm bài vị, lễ dâng thành hoàng, hát thờ, chơi cờ người,… Như vậy, du khách có thể dành một ngày đầy trải nghiệm tại làng gốm sứ Bát Tràng với chi phí vô cùng rẻ. Khi tới đây, bạn sẽ được miễn phí vé vào cửa và chỉ cần chi trả khoảng người cho các hoạt động giải trí hoặc mua sắm nếu có. Ăn gì tại làng gốm Bát Tràng? Đến với làng gốm, du khách đừng quên thưởng thức một số món ăn nổi tiếng nơi đây ở khu chợ Bát Tràng. Cùng theo chân du lịch 3 miền điểm tên một số món ăn nhất định không thể bỏ lỡ. Canh măng mực Được mệnh danh là món ăn “lên rừng, xuống biển”, đây là sự kết hợp mới lạ, độc đáo giữa măng và mực, mang chất riêng của người dân làng gốm Bát Tràng. Nước dùng trong canh làm từ nước luộc gà, nước hầm xương và tôm he mang hương vị vô cùng khó cưỡng. Canh măng mực Nguồn hoabachhop0109 Mọi công đoạn trong khâu chế biến món ăn đều phải được thực hiện tỉ mỉ để cho ra một món ăn đạt chuẩn nhất với vị ngọt và mặn đậm đà của mực kết hợp cùng măng giòn tan. Bánh tẻ Bánh tẻ là đặc sản từ Hưng Yên, Sơn Tây, làm từ gạo tẻ, thịt ba chỉ, mộc nhĩ và lá dong. Đây là một món ăn vô cùng gần gũi với người dân Việt Nam với hương vị béo bùi và giá cả cũng rất vừa túi tiền. Đừng quên xin thêm cô chủ quán một chút tương ớt để thưởng thức bánh tẻ ngon miệng hơn! Bánh khoai nướng – món ăn vặt nên thử khi du lịch làng gốm Bát Tràng Nếu bạn là “fan” cuồng của khoai nướng thì chắc chắn không thể bỏ qua món ăn này. Ngày trước, bánh khoai nướng là một món ăn “cứu đói” người dân Việt Nam, nhưng lại bất ngờ trở thành một đặc sản địa phương mà du khách nào cũng muốn thưởng thức. Đến với Bát Tràng, du khách sẽ được trải nghiệm chiếc bánh nướng với sắc tím, vàng cực kì xinh xắn, ngon mắt. Bánh khoai nướng có mùi thơm từ khoai thoang thoảng, hương vị ngọt ngào và vô cùng thu hút. Xôi vò chè đường Đây là một món ăn nổi tiếng của làng gốm Bát Tràng đặc biệt là vào mùa hè. Để làm ra được món tráng miệng này, người chế biến phải trải qua rất nhiều công đoạn kì công. Khi thường thức, thực khách có thể cảm nhận được hương thơm thanh tao, mùi vị ngọt bùi, chắc chắn sẽ làm hài lòng cả những thực khách khó tính nhất. Đây được coi là món ăn không thể bỏ lỡ khi tham quan Bát Tràng. Trà hột hoa sói Trà được pha chế từ những nụ chè chất lượng và hoa sói với hương thơm mát dịu. Sắc trắng của hoa kết hợp cùng màu nước sẽ tạo nên một tách trà cực kỳ bắt mắt. Đặc biệt, trà hột hoa sói không hề gây mất ngủ nên du khách có thể thưởng thức mà không cần lo lắng bất cứ điều gì về sức khỏe như những loại trà khác. Trà đã trở thành một thú vui tao nhã của người dân địa phương và dần trở thành một phương thức quảng bá vùng Bát Tràng đến với du khách tứ hướng. Kinh nghiệm đi làng gốm Bát Tràng Hà Nội Du lịch 3 miền sẽ đưa ra một số lưu ý giúp cải thiện trải nghiệm của du khách ở Bát Tráng Thứ nhất, du khách có thể sử dụng xe đạp để di chuyển trong làng để tham quan, đây cũng là hoạt động mà trẻ nhỏ vô cùng yêu thích. Thứ hai, khi mua hàng, du khách hãy thử mặc cả để có được mức giá tốt hơn cho mình. Thứ ba, trong quá trình sản xuất, một số sản phẩm có thể gặp lỗi nên du khách cần xem kỹ sản phẩm trước khi mua để đảm bảo quyền lợi cho bản thân. Thứ tư, khi có trẻ nhỏ, du khách cần chú ý an toàn, tránh gây đổ vỡ các sản phẩm trưng bày, buôn bán. Thứ năm, du khách có thể tới tham quan một số địa điểm gần làng gốm Bát Tràng như Ecopark, Trung tâm thương mại Aeon Mall Long Biên,… để trải nghiệm của mình thêm trọn vẹn. Bạn đã sẵn sàng lựa chọn Bát Tràng là địa điểm tham quan cho cuối tuần này của mình chưa? Chúng tôi rất mong bài viết của mình đã cung cấp được cho bạn hình ảnh làng gốm Bát Tràng hấp dẫn và chi tiết với vô vàn điều thú vị cần được khám phá. Nếu bạn tiếp tục muốn tìm kiếm những địa điểm du lịch lý tưởng ở khắp đất nước Việt Nam, đừng quên theo dõi hoặc để lại email cho dulich3mien để có được những kinh nghiệm hữu ích.
Lượt xem 635 Tác giả NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN Bát Tràng là một làng cổ ven đô thuộc huyện Gia Lâm, vốn là đất Bắc Ninh, nay là ngoại thành Hà Nội, từ lâu đã được người trong và ngoài nước biết đến. Đó là làng quê từng sinh ra những bậc khoa bảng lừng danh, những người thợ gốm tài hoa, những người con trung hiếu mà tên tuổi và sự nghiệp của họ đã làm rạng rỡ cho quê hương xứ sở. Bát Tràng cũng là làng gốm đã làm ra nhiều vật phẩm gốm độc đáo mang sắc thái riêng mà trong nhiều thế kỷ qua được ưa dùng từ trong dân gian đến cung đình, từ quà tặng biếu đến đồ cống phẩm ngoại giao. x x x Tìm lại cội nguồn Kể từ lúc hình thành phường Bạch Thổ đến ngày nay, làng gốm Bát Tràng đã trải qua bề dày lịch sử hơn 500 năm. Bát Tràng ngày nay là một vùng nhà cửa sầm uất, có bến thuyền bè nhộn nhịp bên bờ tả ngạn sông Hồng. Ngày nay vị trí có chuyển dịch lên chút ít so với trước kia, những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ XX, khi làm móng công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải, người ta đã tìm thấy vết tích của lò gốm, bể nước, sân gạch dưới độ sâu hơn 10 mét phù sa. Cho nên chúng ta còn lắm băn khoăn trước câu trả lời về cội nguồn và lịch sử phát triển nghề làm gốm men ở Bát Tràng xưa. Kết quả nghiên cứu cho đến gần đây đã đưa tới nhiều kết luận về làng gốm Bát Tràng, đặc biệt là các phát hiện và khai quật khảo cổ học. Gần 20 năm trước, tại xã Đa Tốn, cách Bát Tràng chưa đầy 2 cây số, người dân ở thôn Lê Xá và Đào Xuyên khi đào đất đã tìm thấy những vật phẩm của nhiều thời đã qua kể từ đầu công nguyên đến thời Trần – Lê Sơ, thế kỷ XV. Xã Đa Tốn, vốn không phải là xã có nghề gốm truyền thống, nhưng ở bên cạnh Bát Tràng – một “thị trường gần” thế nào mà chẳng tồn đọng những phế phẩm của lò gốm xưa? Vậy nên chúng tôi rất chú ý khi phát hiện những bát đĩa, âu, bình gốm men ngọc có trang trí nổi hoa cúc, sen, hoa dây cách điệu thuộc thời Trần, tương tự như nhiều dấu tích ở Hoa Lư Ninh Bình, Vân Đồn Quảng Ninh… Lại có cả những bát, đĩa “sống men” và nhiều chiếc rạn, nứt cong vênh rõ ràng là loại thứ phẩm của lò gốm. Sưu tập này phát hiện ở Đào Xuyên, nay lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Còn những chậu gốm men hoa nâu với bố cục hoa dây cách điệu hình sin, khắc chìm tô nâu hay khắc chìm để mộc trên nền nâu, được phát hiện cùng những chiếc đĩa hoa lam cỡ lớn cong vênh, nền trắng ngà, hoa văn cành hoa cúc ở giữa lòng được vẽ bằng bút lông mềm mại, chính là đồ gốm thời Trần – Lê Sơ phát hiện ở làng Lê Xá. Phải chăng, đây là những thông tin có liên quan đến việc nghiên cứu gốm Bát Tràng ở thời Trần, Lê Sơ? Tháng 3 năm 2003, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Sở VH-TT Hà Nội đã phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành thám sát và khai quật khảo cổ học di tích Kim Lan, một xã liền kề phía nam xã Bát Tràng. Trong số các di vật tìm được của cuộc khảo sát, khai quật, chiếm số lượng lớn là đồ gia dụng như bát, đĩa, âu, ống nhổ… tập trung ở các dòng men đặc trưng thời Trần giống sưu tập gốm men đã biết ở Đa Tốn như men ngọc, men nâu, hoa nâu, hoa lam Bên cạnh đó còn có các di vật phản ánh kỹ thuật sản xuất như bao nung, con kê, đồ phế phẩm, cục làm men… Các thông tin phát hiện và khai quật khảo cổ học trên đây đã góp phần chứng minh nghề gốm ở Bát Tràng phải xuất hiện ít nhất là từ thời Trần. Nếu đi từ nguồn tài liệu truyền thuyết dân gian, chúng ta sẽ gặp nhiều thông tin bổ ích nhưng cũng không ít sai lệch mơ hồ. Có chuyện kể rằng vào thời Trần thế kỷ XIII – XIV có 3 vị đỗ Thái học sinh như tiến sĩ triều Lê, được cử đi sứ Bắc quốc tức Trung Quốc là Hứa Vĩnh Kiều người Bát Tràng, cùng với Đào Trí Tiến người Thổ Hà và Lưu Phương Tú người Phù Lãng. Ngoài công việc ngoại giao, ba ông này còn học thêm được nghề làm gốm và đem về dạy cho dân quê mình. Do vậy mà làng Bát Tràng chuyên chế các hạng đồ gốm men có sắc trắng, làng Thổ Hà chuyên chế các hạng đồ gốm men có sắc đỏ, còn làng Phù Lãng thì chế các hạng đồ gốm men có sắc vàng thẫm. Rồi lại có một “dị bản” khác nội dung tương tự như vậy, duy chỉ có 2 chi tiết kể khác đi. Đó là thời điểm 3 vị đi sứ vào cuối thời Lý đầu thế kỷ XIII và tên vị thứ nhất được kể đến là Hứa Vĩnh Cảo – không phải Hứa Vĩnh Kiều. Câu chuyện này của một nhà nho hiếu sự, chứ sự thật nào phải như vậy. Hứa Vĩnh Kiều chưa bao giờ được người Bát Tràng thờ làm ông tổ nghề hay làm thành hoàng. Văn bia ở Bát Tràng cho biết đình được làm lại, lợp ngói qui mô đồ sộ vào năm Canh Tý, niên hiệu Bảo Thái 1720, chia ra 5 nóc, mỗi nóc thờ khác nhau. Nay ở đình còn giữ được hơn 50 đạo sắc phong cho các thần của các thời Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Xưa nhất là đạo sắc đời Lê Cảnh Hưng. Đặc biệt có nhiều đạo sắc đời Quang Trung và Cảnh Thịnh, là những di vật vô cùng quí giá cần trân trọng bảo quản và gìn giữ. Nay đình Bát Tràng được trùng tu mới rất khang trang đẹp đẽ. Còn một truyền thuyết khác đáng chú ý hơn, cho biết dân làng Bát Tràng vốn từ làng Bồ Bát ở huyện Yên Mô, Ninh Bình di chuyển ra Bắc và định cư ở tả ngạn sông Hồng, phía dưới Thăng Long, để tiện chuyên chở nguyên liệu và thành phẩm. Lúc đầu, chỉ có 4 gia đình di cư ra, thuộc các dòng họ Trần, Bùi, Phùng, Vũ cùng với họ Nguyễn sở tại lập thành phường sản xuất đồ gốm, gọi là Bạch Thổ phường. Rồi sau đó lại đổi tên là Bá Tràng phường và cuối cùng chuyển ra tên gọi Bát Tràng ở thế kỷ XIV. Trong đình làng Bát Tràng có đôi câu đối chữ Hán “Bồ di thủ nghệ khai đình vũ; Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần”. Nghĩa là “Từ làng Bồ Bát rời nghề cũ ra đây dựng xây đình vũ; Lòng dân thơm ngát hương lan kính tạ thánh thần”. Câu chuyện này tuy không cho ta biết thời điểm chuyển cư, nhưng qua tài liệu khảo cổ và thư tịch, chúng tôi thấy thời điểm hợp lý xảy ra vào thời Trần. Tài liệu thư tịch cổ cho biết rõ từ nửa sau thế kỷ XIV đã xuất hiện tên gọi xã Bát Tràng trong danh vị hành chính. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép vụ lụt lội xảy ra vào tháng 7 năm Nhâm Thìn, năm thứ 12 niên hiệu Thiệu Phong 1352. Và một sự kiện khác, sách trên chép rằng vào tháng 12 năm Bính Thìn, năm thứ 4 niên hiệu Long Khánh 1376, vua Trần Duệ Tông dẫn đầu đoàn chiến thuyền trong cuộc Nam chinh, xuất phát từ Thăng Long, xuôi theo dòng sông Nhị sông Hồng cũng đi qua bến sông xã Bát. Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh, đất nước ta bước vào thời kỳ xây dựng mới mà nay chính sử gọi là thời Lê Sơ. Dưới thời Lê Sơ, nghề gốm ở Bát Tràng được khôi phục nhanh chóng trước khí thế mới của đất nước. Trong cuốn sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, soạn xong năm 1435 đã cho ta biết Trong số đồ cống nạp triều Minh phương Bắc “làng Bát Tràng phải cung ứng 70 bộ bát đĩa”. Kể cũng lạ, vì nước Trung Quốc có nghề làm gốm men phát triển và nổi tiếng thế, vậy mà lại nhận đồ cống bằng gốm men của Đại Việt? Tiếng nói từ các hiện vật Để tìm hiểu về nghề gốm Bát Tràng ở các thế kỷ trước, chúng ta còn có thể tìm hiểu qua các vật phẩm lưu giữ ở nước ngoài. Theo các nguồn thông tin về khảo cổ học và bảo tàng, tới nay cho biết 55 bảo tàng trên thế giới sưu tập và lưu giữ không ít đồ gốm cổ Việt Nam như Nhật Bản, Philippin, Pháp, Mỹ, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ… Trong đó chắc chắn còn nhiều tiêu bản có xuất xứ về nơi sản xuất là lò gốm Bát Tràng. Ông John Guy ở bảo tàng Victoria và Albert nước Anh, một nhà nghiên cứu gốm Việt Nam nổi tiếng đã đi tìm mối quan hệ giao lưu văn hóa từ những đồ gốm men Việt Nam với gốm Trung Quốc, Thái Lan trên các dữ liệu về kiểu dáng và trang trí. Xem tài liệu giới thiệu cuộc triển lãm do Hội gốm sứ Đông Nam Á tổ chức tại bảo tàng quốc gia Singapore, tổ chức vào 6-1982, ta thấy nhiều bức ảnh chụp bát, đĩa chứng minh về quan hệ giao thương của đồ gốm Việt Nam với Thái Lan, Nam Trung Quốc và Nhật Bản. Tiêu biểu nhất là mẫu đĩa to hoa lam vẽ cành hoa cúc bằng men xanh chì. Điều may mắn hơn, tuy nay không còn rõ dấu vết một chiếc lò nung của Bát Tràng ở 3 thế kỷ XVI – XVIII dưới triều Lê – Tây Sơn nhưng tại nhiều đình chùa trong nước hay ở các bảo tàng quốc gia, bảo tàng địa phương và sưu tập tư nhân, chúng ta còn có thể gặp nhiều vật phẩm gốm Bát Tràng có minh văn cho biết rõ năm chế tạo, họ và tên người đặt hàng và người sản xuất. Thông tin từ minh văn cho biết người đặt hàng từ hàng ngũ quan chức cao cấp như phò mã, công chúa cho đến tầng lớp bình dân. Thí dụ như một cặp chân đèn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, minh văn khắc 30 dòng dọc theo phần dưới, cho biết rõ nó được chế tạo vào ngày 24 tháng 6 năm thứ 3 niên hiệu Diên Thành 1580, do đồng tác giả là Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu, còn những người đặt hàng gồm phò mã Mạc Ngọc Liễn và Phúc Thành công chúa, cùng hàng chục thiện nam tín nữ để cung tiến cho quán Linh Tiên Hà Tây. Theo thống kê của chúng tôi thì minh văn trên nhiều đồ gốm cổ Bát Tràng đã cho biết người đặt hàng gốm trải ra trên một vùng rộng lớn bao gồm nhiều phủ, huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ như Gia Lâm Hà Nội, Thiên Thi, Đông An, Văn Giang Hải Dương, Đông Ngàn Bắc Ninh, Nghi Dương Hải Phòng, Nam Trực Nam Định, Thần Khê Thái Bình, Phụng Hóa Ninh Bình… Nhiều đồ gốm còn ghi rõ được đặt làm để cung tiến vào chùa, đình, quán như chùa Bối Khê Hà Tây, Đại Bi Thái Bình, Thanh Quang Nam Định, đình Mai Phúc Hà Nội, Liên Châu Hà Tây, Quán Linh Tiên Hà Tây… Tổng số những nghệ nhân gốm đã lưu danh trên sản phẩm thế kỷ XVI – XVII đã biết đến hơn 30 người. Đặc biệt, gia đình nghệ nhân Đỗ Phủ đã thấy trên hàng chục sản phẩm chân đèn, lư hương bao gồm họ tên ông và vợ là Nguyễn Thị Bản, con trai Đỗ Xuân Vi, con gái Đỗ Thị Tuân và con dâu Lê Thị Ngọc… Đồ gốm Bát Tràng không chỉ đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước về đồ gia dụng, vật liệu kiến trúc, đồ gốm tôn giáo mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Một phát hiện tàu cổ ở vùng biển Cà Mau mấy năm trước đây cho thấy có đồ gốm hoa lam Bát Tràng thế kỷ XIV cũng với gốm Thái Lan. Hàng hóa trong con tàu đắm cổ Cù Lao Chàm cuối thế kỷ XV chắc không chỉ có đồ gốm sản xuất ở Chu Đậu Hải Dương, Thăng Long mà còn có cả ở Bát Tràng. Vào thế kỷ XVI – XVII, gốm Bát Tràng phát triển trong một bối cảnh kinh tế mới của đất nước và của khu vực. Nhiều nước Tây Âu phát triển tràn sang phương Đông. Các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp thành lập công ty và xây dựng các thương điếm ngay tại phương Đông. Hoạt động ngoại thương khu vực Đông Nam Á càng trở nên sôi động. Sản phẩm gốm Bát Tràng là mặt hàng được nhiều nước ưa chuộng vì vẻ đẹp hài hòa độc đáo của hình dáng, màu men, nét vẽ. Trong nhiều gia đình quý tộc, thương gia và một số bảo tàng Nhật Bản cho đến nay còn lưu giữ nhiều di vật gốm Việt Nam, trong đó có những đồ gốm Bát Tràng. Theo một số nhà nghiên cứu nhận xét, nhiều nghệ nhân gốm Nhật Bản đã học tập và làm theo gốm “Kochi” gốm Giao Chỉ như mẫu lọ, lộc bình, bát dùng trà đạo “vẽ chuồn chuồn” của Bát Tràng. Các công ty phương Tây, nhất là công ty Đông Ấn Hà Lan đã mua nhiều đồ gốm Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản. Năm 1634 thương gia Hà Lan tên là Abraham Duijcker mua đồ gốm loại hảo hạng cùng với hàng tơ lụa. Năm 1670, tàu Putoir ngoài tơ lụa và hương liệu còn mua đồ gốm của Đàng Ngoài. Họ không những mua đồ gốm mà còn mua cả những viên gạch vuông “da sắt”, vốn là những bao nung gốm hình vuông, cạnh 30cm, dày khoảng 3,5cm. Cho đến thời Nguyễn, người dân Bát Tràng còn phải nộp thuế sản phẩm cho triều đình, mỗi năm mỗi suất đinh 60 viên gạch vuông da sắt và 270 viên gạch vuông loại thường. Gạch Bát Tràng đã từ lâu đi vào ca dao Trên trời có đám mây xanh Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng. Ước gì anh lấy được nàng, Để anh mua gạch Bát Tràng về xây. Xây dọc rồi lại xây ngang Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. Thăng trầm của một dòng gốm Tài liệu hiện vật gốm Bát Tràng thời Trần – Lê Sơ, bao gồm một số loại hình chậu, thạp thuộc dòng gốm hoa nâu, bát, đĩa, lọ, bình thuộc dòng gốm hoa lam… Dưới thời Lê Sơ và Mạc, thế kỷ XV – XVI, đồ gốm Bát Tràng xuất hiện nhiều loại đồ thờ như chân đèn, lư hương có kích thước lớn. Thời kỳ này, phổ biến kết hợp trang trí nổi để mộc hình rồng, phượng, ngựa có cánh với trang trí vẽ lam mây lửa, hoa dây, lá đề Nhờ hệ thống đồ gốm có minh văn có niên đại tuyệt đối trên gốm Bát Tràng mà ta có thể nhận ra nét riêng khác biệt so với các vùng gốm khác. Gốm Bát Tràng tỏ ra khác biệt rõ nhất là mục đích sản xuất phục vụ tiêu dùng từ cung đình đến dân gian, và tôn giáo tín ngưỡng trong nước. Đề tài trang trí bao trùm là hình rồng, phượng và mây, ngựa, hạc, lân, hoa dây lá, lá đề, hoa cúc… Từ các mẫu hoa văn trên những đồ gốm có niên đại tuyệt đối chính là cơ sở lập ra hệ thống mẫu chuẩn để xác định niên đại cho rất nhiều gốm Bát Tràng không rõ. Ở thế kỷ XVI – XVII, gốm Bát Tràng còn xuất hiện một dòng gốm men nhiều màu nặng lửa mà nổi trội là men xanh rêu, vàng nâu và trắng ngà. Loại hình thuộc nhóm này có chân đèn, lư hương, bình vôi, tượng voi, ngựa, nghê… Những nét chung dễ dàng nhận diện của nhóm này là lối trang trí tỉ mỉ đề tài rồng, hoa sen, lá đề, chim, hạc. Với bố cục sắp xếp chim đậu bên hoa sen, hạc đứng, nghê quỳ. Trên loại gốm men nhiều màu này, men nâu còn thấy sử dụng tô trên diềm chân hay đai nổi của chân đèn hay hình hổ phù ở phần trên chân đèn. Đặc biệt, những chân đèn đế hình nghê, lư hương chữ nhật hay vuông, mô hình nhà, long đình… thế kỷ XVII trên gốm Bát Tràng đã có mẫu số chung về nhiều yếu tố như xương gốm, màu men trắng ngà, men xanh rêu, trang trí nổi để mộc là điểm không giống với vùng nào. Đồ gốm men rạn cũng là một dòng gốm riêng có của Bát Tràng. Qua tập hợp những đồ gốm men rạn có niên đại tuyệt đối chúng tôi đã thấy dòng gốm này xuất hiện từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII và kéo dài đến thế kỷ XIX. Cặp chân đèn hai phần do Đỗ Phủ tạo tác có minh văn ghi rõ niên hiệu Hoằng Định, đời vua Lê Kính Tông. Tiếp theo là cặp bình niên hiệu Cảnh Trị, đời vua Lê Huyền Tông. Lư hương hoa sen, chân nến đế nghê niên hiệu Vĩnh Thĩnh đời vua Lê Dụ Tông. Đỉnh gốm mang niên hiệu Vĩnh Hựu đời vua Lê Ý Tông. Đỉnh chữ nhật, chóe lục giác, lư hương tròn, bình miệng vuông, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ nằm, niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông. Hẳn đây là những vật phẩm gốm mang rõ đặc trưng đồ ngự dụng của cung đình nhà Lê. Vào cuối thế kỷ XVIII, dưới triều Tây Sơn, nghề gốm men ở Bát Tràng còn phồn thịnh lắm. May sao, bây giờ chúng ta còn có thể hình dung về quang cảnh Bát Tràng ngày đó qua một bài thơ của Cao Huy Diệu. Trong một cuộc du xuân, ông đã kể lại cảm xúc khi đến Bát Tràng qua bài Bát Tràng vãn bạc. Dưới bài thơ có lời tiểu dẫn của ông cho biết “Năm Giáp Dần 1791 tôi đi chơi, bèn đáp thuyền buôn cùng đi. Đúng trưa, đậu thuyền ở bến Bát Tràng thấy phố chợ đông đúc, hàng bày đầy ắp, mái chèo đi lại tới tấp, ngoài bờ sông một bãi dâu xanh mướt, cảnh xuân như vẽ”. Buổi trưa đậu thuyền ở Bát Tràng dịch nôm Sông lớn dừng thuyền giữa bến ngang Đến đây lò bát, chốn quê hương Sờ sờ đất mới làn roi nổi Thăm thẳm nương dâu bãi bạt ngàn Đi lại lối quen nơi phát đạt Bán buôn tấp nập khách giàu sang… Bảo tàng Lịch sử Việt Nam còn lưu giữ được một cặp bát gốm men rạn vẽ lam với minh văn ghi 4 chữ Hán dưới đế Quang Trung niên tạo, có nghĩa là chế tạo trong khoảng niên hiệu Quang Trung 1788 – 1792. Thành bên trong và ngoài bát đều phủ men rạn đặc trưng dòng gốm Bát Tràng. Lòng bát không thấy dấu kê hay vết khoanh lòng chứng tỏ nó có được nung trong hộp riêng mà có thể do những viên gạch vuông xếp lại. Bên thành ngoài bát, một phía có vẽ khóm trúc bằng men xanh và phía đối diện viết hai hàng chữ Hán Vị xuất địa đầu tiên hữu tiết. Câu này như một triết lý nhằm ngợi ca khí tiết người quân tử. Nhiều đồ gốm có ghi niên hiệu Gia Long 1802 – 1819 còn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử và Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội là bằng chứng sinh động về nghề gốm men Bát Tràng ở đầu thời nhà Nguyễn. Trên những vật phẩm như lộc bình, chóe, ấm, đồ thờ, đồ gia dụng khác còn khá phổ biến trong nước, chúng ta vẫn thấy sự tiếp nối với kỹ thuật tạo dáng và trang trí của thời cuối Lê – Tây Sơn. Trên các chóe, bình gốm phủ men rạn, ta vẫn thấy kết hợp vẽ men xanh đề tài phong cảnh, chim bên hoa cúc, chim đậu cành trúc, bướm với hoa hồng, chim với hoa sen… Cũng có tiêu bản đáng chú ý như bình “dóng trúc”, người thợ như “sao chép” lại hiện thực ngay từ mấu trúc cho đến một đôi cành lá trúc và một con chim chao cánh. Còn loại bình rượu hình quả bầu lọ thì đề tài xoay quanh các loại vật quý như thanh bảo kiếm, cuốn thư, đỉnh trầm, túi gấm, trái phật thủ hay bông lựu, quả đào… Từ sau Gia Long trở đi, nghề làm gốm men ở Bát Tràng bị kìm hãm và không để lại những vật phẩm có ghi niên hiệu các vua nhà Nguyễn nữa. Ngược lại, các niên hiệu từ Minh Mạng đến Khải Định đôi khi chúng ta còn có thể thấy rải rác ở nhiều nơi trên các vật phẩm gốm sứ đặt làm ở Trung Quốc. Chính điều này là nguyên nhân hạn chế sự phát triển nghề gốm của Bát Tràng. Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình thường, cạnh những hộ sản xuất gốm cá thể đã xuất hiện chủ lò giàu có quản lý 2 lò bầu. Năm 1936, nhà địa lý học Pháp Pierre Gourou đã nhận xét về làng gốm Bát Tràng như sau “Bát Tràng chắc chắn là làng gây ấn tượng mạnh mẽ nhất vùng châu thổ sông Hồng về mặt tổ chức công nghiệp, với những cái lò đồ sộ, dài 12 m, cao 2,60 m, rộng 3,60 m, những ngôi nhà chen chúc nhau – ở đó không trông thấy trâu hay nông cụ – những đống củi cao lù lù từ 7 tới 8 m3. Nhưng ngôi làng hầu như hoàn toàn công nghiệp này, gần như không có đất trồng trọt, đang ở buổi suy tàn; hiện chỉ còn lại bốn năm lò hoạt động; dân chúng qui sự suy tàn này cho tình trạng khó khăn về tìm đất và giá cả quá cao mà họ phải trả. […] Một số phải đi làm gạch ở bên ngoài và phụ nữ Bát Tràng buôn cau khô và nước mắm rất lớn”. Bát Tràng ngày nay Từ sau năm 1954, tại Bát Tràng thành lập xí nghiệp gốm Bát Tràng vào năm 1958, với số công nhân lúc đông nhất tới 1250 người. Vào thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ trước, tại Bát Tràng xuất hiện nhiều xí nghiệp và hợp tác xã như Hợp Thành 1962, Hưng Hà 1977, Hợp Lực 1978, Thống Nhất 1982, Ánh Hồng 1984, X51, X54 1988… Các cơ sở trên đây tham gia tích cực vào sản xuất đồ gốm sứ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Một số nghệ nhân gốm đã được Liên hiệp xã ngành gốm sứ xét công nhận như Đào Văn Cam, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Nguyễn Văn Cổn, Lê Văn Cam. Những năm gần đây ở Bát Tràng càng xuất hiện nhiều nghệ nhân như Trần Độ, Nguyễn Đức Dương, Trần Văn Lợi… Sản phẩm của nhiều nghệ nhân và thợ giỏi ở Bát Tràng đã được nhận nhiều giải thưởng Bàn tay vàng Mỹ thuật Đông Dương 1999, Giải thưởng Ngôi sao Việt Nam tại Văn Miếu Quốc Tử Giám 2001, Bằng khen của các cấp từ thành phố đến Trung ương, Giải thưởng Quả cầu vàng Festival Huế 2006 Từ sau năm 1986, trong công cuộc đổi mới đất nước, hàng gốm Bát Tràng có nhiều chuyển biến lớn theo hướng kinh tế thị trường. Theo đề án qui hoạch làng gốm sứ Bát Tràng, tới năm 2010 số lò hộp trong xã là chiếc. Dự kiến đến 2010, tổng giá trị gốm sứ đạt triệu đồng. Sản phẩm gốm Bát Tràng ngày càng phong phú đa dạng. Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm theo mẫu mã mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang thị trường châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Bát Tràng đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho 2000 – 3000 lao động từ các vùng lân cận tới Bát Tràng. Đó là một trong những hiệu quả kinh tế xã hội đáng lưu ý. Làng gốm Bát Tràng ngày càng phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường nhưng những khó khăn, thách thức còn nhiều. Mâu thuẫn rất cơ bản của Bát Tràng là tốc độ phát triển sản xuất và dịch vụ quá lớn nhưng địa bàn hoạt động lại quá hẹp, không đủ mặt bằng cho phát triển sản xuất. Công nghệ sản xuất tuy có cải tiến, một số công ty trách nhiệm hữu hạn và hộ gia đình đã trang bị lò ga nhưng nhìn chung chưa đủ sức cạnh tranh. Hàng gốm sứ mỹ nghệ truyền thống giá bán còn rất rẻ, lợi nhuận chưa cao. Việc sản xuất gốm sứ chưa chú ý giải quyết giá trị nghệ thuật sáng tạo của nghề gốm cổ truyền. Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng cho sản xuất và đời sống của dân, chưa có qui hoạch và cải tạo gây cản trở cho sản xuất. Môi trường của Bát Tràng đã được báo động cả về nhiệt độ không khí, bụi và khí độc, ô nhiễm nguồn nước… Địa phương chưa có qui hoạch và đầu tư thích đáng để giữ gìn làng nghề truyền thống. Khó khăn khác của làng gốm Bát Tràng là vấn đề “đầu ra”, tạo một sức mạnh căn bản cho sự phát triển. Tuy nhiên, giải pháp xử lý đầu tiên phải là tiếp nhận, chuyển giao qui trình công nghệ vào các khâu chế biến đất, khuôn, men nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm gốm sứ mà vẫn giữ được nét riêng biệt của Bát Tràng. Mặt khác, cần có sự thu hút tài năng, phát triển sáng tạo mẫu mã để thích ứng cao nhất với thị trường, đặc biệt là các mũi nhọn xuất khẩu. Đề án qui hoạch của xã Bát Tràng cũng đã chỉ ra việc cần thiết phải thành lập một trung tâm tiếp thị trên cơ sở tập trung các chuyên gia, thợ giỏi vừa nghiên cứu và tiếp cận mọi nhu cầu khách hàng; thường xuyên có thông tin về giá cả, thị trường thông qua mạng lưới thông tin đại chúng; mở rộng hệ thống đại lý, đại diện để tăng cường quảng cáo giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm cả trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc giao lưu trao đổi, tham quan các cơ sở sản xuất gốm sứ trong nước và nước ngoài sẽ rất cần thiết để các cơ sở sản xuất điều chỉnh và đáp ứng nhu cầu thị trường. Làng gốm Bát Tràng là một làng gốm có bề dày lịch sử truyền thống hơn 500 năm. Phát huy truyền thống đó, ngày nay với đường lối đổi mới, thực hiện đề án qui hoạch tổng thể xã Bát Tràng đến năm 2010, Bát Tràng đang từng bước phát triển, năng động và hòa nhập với nền kinh tế đất nước. * Trải qua hơn nửa thiên niên kỷ, gốm Bát Tràng còn lại một khối lượng sản phẩm phong phú và đa dạng, Với các vật phẩm gốm qua khai quật khảo cổ học và những đồ gốm trong sưu tập của các bảo tàng và tư nhân và căn cứ vào những đặc điểm chung về xương gốm, màu men, đề tài trang trí và đặc biệt, nhờ các dòng minh văn, chúng tôi đã tập hợp và giới thiệu trong sách Gốm Bát Tràng, thế kỷ XIV – XIX in năm 1995; sách Cẩm nang đồ gốm Việt Nam in năm 1999. Trích dẫn từ Xưa & Nay – Số 275 + 276 Tết 2007 Thánh Địa Việt Nam Học
làng gốm bát tràng tiếng anh là gì